Chưa bao giờ cụm từ “khởi nghiệp” được nhắc đến nhiều như những ngày gần đây. Nó như một sự thôi thúc hành động từ nhu cầu thực tiễn. Năm 2016 cũng đã được Chính phủ chọn là Năm quốc gia khởi nghiệp. Đó chính là những tín hiệu tốt đẹp như những cánh én báo mùa xuân về.
Điểm cốt yếu khi nói đến tinh thần quốc gia khởi nghiệp và doanh nghiệp hay cá nhân khởi nghiệp là nói đến tư duy sáng tạo, sáng tạo không ngừng nghỉ của cả một quốc gia dân tộc, cũng như của từng doanh nghiệp, cá nhân khởi nghiệp. Năng lượng sáng tạo liên tục với một ý chí quật cường chính là một trong những động lực quan trọng để quốc gia, dân tộc, doanh nghiệp, mỗi cá nhân phát triển mạnh mẽ nếu không muốn “tụt hậu” lại phía sau.
Tại Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại hình doanh nghiệp chiếm đa số và chủ yếu trong nền kinh tế, chiếm gần 97% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP… Số tiền thuế và phí mà các doanh nghiệp này đã nộp cho Nhà nước đã tăng 18,4 lần sau 10 năm. Những con số trên đã khẳng định tầm quan trọng và giá trị mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mang lại. Tuy nhiên, theo một thống kê từ 100 người đã khởi nghiệp trong 02 năm trở lại đây thì 80% đứng trước nguy cơ giải thể trong năm đầu tiên hoạt động. Nguyên nhân chính xuất phát từ việc thiếu vốn (chiếm 40%); thiếu kiến thức về quản trị điều hành doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 50%), thiếu kinh nghiệm thực tế trong môi trường kinh doanh (chiếm 30%). Rõ ràng, Việt Nam đang chứng kiến sự trỗi dậy của một thế hệ doanh nhân ngày càng trẻ hơn về tuổi đời. Họ tự tin, quyết liệt, mạnh mẽ để tự tạo ra việc làm cho bản thân mình và cho nhiều người khác. Dù vậy, để doanh nhân trẻ khởi nghiệp thành công, họ rất cần sự đồng hành của rất nhiều tổ chức và cá nhân.
Bên cạnh đó, trong vòng khoảng 4 năm trở lại đây, một “dòng chảy” khởi nghiệp mới đã thực sự xuất hiện và ghi dấu ấn đậm nét tại Việt Nam. Bất chấp những khó khăn, thị trường khởi nghiệp ở Việt Nam vẫn đứng trong top 3 thị trường khởi nghiệp phát triển mạnh tại khu vực Đông Nam Á, cùng với Thái Lan và Indonesia. Điều này chứng tỏ thị trường khởi nghiệp Việt Nam đang có sức sống và tiềm năng phát triển.
Quý I năm 2016 có thể không phải là một khoảng thời gian tươi đẹp đối với nền kinh tế Việt Nam, khi tăng trưởng của nền kinh tế chỉ đạt mức khá khiêm tốn là 5,46%, thấp hơn nhiều so với mức 6,12% của quý I năm 2015. Đó là chưa kể hàng loạt các vấn đề đang đè nặng lên nền kinh tế, như hạn mặn kỷ lục tại đồng bằng sông Cửu Long, gánh nặng nợ công và bội chi ngân sách đã trở nên quá sức chịu đựng. Tuy nhiên, ở một phương diện khác, đây có thể xem là những tín hiệu vui vì chúng ta đã dám công khai và nhìn thẳng vào các vấn đề nghiêm trọng nhất của đất nước và nền kinh tế. Và chỉ khi nhận thức rõ tất cả những khó khăn ấy, Việt Nam mới có thể “dám” bắt tay vào thực hiện mục tiêu và cũng là lối thoát duy nhất của đất nước và nền kinh tế là “trở thành một quốc gia khởi nghiệp”. Trở thành quốc gia khởi nghiệp cũng đồng nghĩa với việc giải phóng tối đa tất cả tiềm năng của người dân trong việc phát triển kinh tế, dựa trên việc mỗi người tự tìm lấy lợi thế sở trường của mình với sự hỗ trợ tối đa của Chính phủ.
Đó không chỉ đơn thuần là một khẩu hiệu kêu gọi, hay chỉ là một động thái đi theo trào lưu đang rất mốt trên thế giới hiện nay. Trên thực tế, số quốc gia có thể được xem như thành công trong việc trở thành một quốc gia khởi nghiệp trên thế giới không có nhiều, mà Israel là một ví dụ điển hình. Chỉ với một số dân ít ỏi là 8 triệu người, nhưng Israel lại đang là một nền kinh tế cực kỳ phát triển với cốt lõi là thực hiện thành công mục tiêu trở thành quốc gia khởi nghiệp của mình.
Trong thời điểm hiện tại, rõ ràng việc trở thành một quốc gia khởi nghiệp là lối thoát duy nhất cho nền kinh tế Việt Nam. Vì một thực tế là cả khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đều không thể hấp thụ và giải quyết hết lượng lao động dư thừa trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Khu vực DNNN thì đang có xu hướng thu hẹp quy mô hoạt động, còn khu vực FDI vẫn thiên về thâm dụng lao động trình độ thấp. Theo thống kê, số lao động có trình độ đại học thất nghiệp tại Việt Nam chiếm tới 20% tổng số lao động thất nghiệp trong cả nền kinh tế. Đây rõ ràng là một tín hiệu đáng báo động, không chỉ cho nền giáo dục Việt Nam, mà còn cho cả nền kinh tế Việt Nam nữa. Vì một nền kinh tế có lượng cử nhân đại học thất nghiệp chiếm tỷ lệ lớn như vậy, là một nền kinh tế bị đặt dấu hỏi về trình độ phát triển khi quá tập trung vào tuyển dụng những người lao động trình độ thấp và chủ yếu thực hiện giai đoạn gia công và thâm dụng lao động đơn giản.
Từ những vấn đề trên, để góp phần hướng ứng và chung tay góp phần phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp tại tỉnh nhà. Chủ đầu tư phối hợp với Chúng tôi tiến hành nghiên cứu và lập dự án “Trung tâm khởi nghiệp”.